Bố cục hiện hành Kinh_Thi

Bản Kinh Thi hiện hành gồm có 311 bài (xưa gọi là thiên 篇 hay thập 什). Kì thực, không phải tất cả các bài đều mất tên họ tác giả, thậm chí tên họ của họ vẫn còn có thể khảo chứng được. Chẳng hạn, bài Tiệt Nam Sơn trong Tiểu nhã nói rõ "Gia Phủ làm lời thơ này".[lower-alpha 11] Hay như trường hợp bài Hạng bá trong Tiểu nhã ghi "Hoạn quan tên là Mạnh Tử làm ra bài thơ này".[lower-alpha 12] Bài Tung cao và Chưng dân trong Đại nhã thì nói "Cát Phủ làm bài thơ này"[lower-alpha 11] thì Cát Phủ ở đây là Doãn Cát Phủ, Thái sư thời Chu Tuyên Vương. Tả truyện còn chép rằng, bài Tái trì thuộc Dung phong là do bà phu nhân của Hứa Mục Công làm còn Kinh Thư nói bài Si hiêu của Mân phong là do Chu Công Đán làm ra[22]. Tất nhiên, phương pháp dùng thư tịch để khảo cứu thư tịch cũng chưa hoàn toàn đáng tin cậy. Nhìn chung, phần lớn họ tên tác giả các bài thơ trong Kinh Thi đều đã bị rơi rụng trong quá trình lưu truyền, tập hợp, chỉnh lý từ dân gian lên vương thất, trong dòng chảy bất tận của thời gian. Kinh Thi là tổng tập thơ ca vô danh thời nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc.

Trong số 311 bài thơ, có 6 bài chỉ có đề mục chứ không có lời, gọi là "dật thi" (thơ đã mất). Sáu bài đó là Nam cai南陔(thuộc Lộc minh chi thập 鹿鳴之什); Bạch hoa 白華, Hoa thử華黍, Do canh 由庚, Sùng khâu 崇丘, Do nghi 由儀 (thuộc Bạch hoa chi thập 白華之什). Các nhà nghiên cứu cho rằng, 6 bài này là nhạc ca, tên bài thì còn, nhưng điệu nhạc đã mất, vì vậy không chép vào Kinh Thi được. Chu Hy làm Truyện, gọi những bài ấy là "sênh[23] thi" (cũng đọc "sinh thi"). Chu chú rằng, "Sênh, nhạc được dùng trong yến lễ[lower-alpha 13]", "có nhạc nhưng không có lời".[lower-alpha 14] Sênh thi tựa như các tác phẩm nhạc không lời ngày nay, mỗi bài thơ là lời của một bản nhạc nhất định, nhạc ngày nay không còn[24]. Chu Hy phỏng đoán thứ tự 6 bài sênh thi này là tuần tự tấu nhạc trong một buổi lễ và Mao Hanh đưa chúng vào Mao thi, dù "hữu mục vô từ" (có đề mục, không có lời) là có dụng ý: trong phần Nhã, mỗi cụm thơ đều đủ 10 bài, đưa sênh thi vào chỉ với mục đích cho đủ số 10 bài[24].

Với 305 bài thơ còn lại, trong lịch sử học thuật Trung Hoa đã từng có 3 cách phân loại chủ yếu[25]. Một là chia ba phần "Phong, Nhã, Tụng", thấy sớm nhất trong thiên Nho hiệu 儒效 sách Tuân Tử 荀子 và Nhạc ký 樂記. Hai là chia bốn phần "Nam, Phong, Nhã, Tụng", là cách phân loại của học giả đời Tống như Vương Chất trong sách Thi tổng văn 詩總文 và Trình Đại Xương trong sách Thi luận 詩論. Ba là cách chia sáu phần "Phong, Phú, Tỉ, Hứng, Nhã, Tụng" do Trịnh Huyền đời Hán chủ trương. Trong ba cách đó, cách đầu có lịch sử lâu đời nhất và ảnh hưởng rộng nhất[25].

Phong

Phong 風 là "Thập ngũ quốc phong", tức ca dao của 15 nước chư hầu hoặc khu vực, gồm Chu Nam 周南, Thiệu Nam 召南, Bội phong 邶風, Dung phong 鄘風, Vệ phong 衛風, Vương phong 王風, Trịnh phong 鄭風, Tề phong 齊風, Ngụy phong 魏風, Đường phong 唐風, Tần phong 秦風, Trần phong 陳風, Cối phong 檜風, Tào phong 曹風, Mân phong 豳風 (hoặc Bân phong),[lower-alpha 15] cộng 160 bài.

Phong là nhạc điệu[4], các bài Quốc phong phần nhiều là "thơ ca dân gian" ("dân tục ca dao", chữ dùng của Chu Hy), phần nhạc kèm theo có sắc thái âm nhạc dân gian địa phương, gọi là "thổ nhạc"[25]. Chu Hy chú thích rằng "Gọi thơ ấy là Phong, bởi họ nhờ đức hóa ở trên mà phát ra lời, lời lại rất rung động lòng người. Giống như vật vì gió lay động mà phát ra tiếng, rồi tiếng đó lại làm vật hết sức rung động vậy. Bởi thế các chư hầu sưu tầm để dâng lên Thiên tử, Thiên tử nhận và giao cho Nhạc quan, lấy đó để khảo sát cái tốt cái xấu trong phong tục mà dân ưa chuộng, từ đó biết được chỗ được mất trong chính sự. Theo thuyết cũ, Nhị Nam là Chính phong, thơ này được dùng cho gia đình, làng xóm, đất nước và giáo hóa cả thiên hạ vậy. Thơ 13 nước là Biến phong, giao cho Nhạc quan lĩnh lấy, dùng để thời thường học tập".[lower-alpha 16] Sách Thi đại tự 詩大序 cho rằng Phong dùng vào giáo hóa, phúng thích, "nói việc của một nước, là gốc của một người".[lower-alpha 17] Học giả đời Tống là Trịnh Tiều coi Phong là "do thổ phong mà ra, đại để là lời của những kẻ hèn mọn, tôi tớ, đàn bà, con gái; ý thơ tuy xa song lời thơ thì thiển cận trùng lặp".[lower-alpha 18] Học giả Lương Khải Siêu thì cho Phong là lời thơ có thể ngâm đọc chứ không hát được. Riêng Trình Đại XươngCố Viêm Vũ thì ngờ rằng ngày xưa không có danh từ "Quốc phong", hai chữ này do người sau hiếu sự đặt ra[26].

Nhã

Nhã 雅 chia ra Tiểu nhã 小雅 và Đại nhã 大雅, cộng 105 bài. Trong mỗi Đại nhã và Tiểu nhã lại phân làm "chính" và "biến". Theo Chu Hy, Chính Đại nhã là nhạc dùng ở triều hội, Chính Tiểu nhã là nhạc dùng ở yến tiệc, phần nhiều do Chu Công Đán chế tác. Còn Biến nhã thì không biết chức năng ra sao[27].

Nhã có nghĩa như "chính" 正, nghĩa là "đúng đắn", được hiểu là "vương kỳ chính thanh", là âm nhạc vùng kinh ấp của nhà Chu thời Tây Chu[25], khu vực này người Chu gọi là Hạ, thuộc tỉnh Thiểm Tây ngày nay[4]. "Nhã" cũng vốn là tên nhạc khúc, thiên Cổ chung trong Tiểu nhã có câu "Dĩ nhã dĩ nam" có thể chứng minh điều đó[4]. Thời cổ, "Nhã" và "Hạ" có thể dùng thay cho nhau, sách Mặc Tử 墨子 dẫn thơ Đại nhã từng gọi là Đại hạ[4]. Sách Thi đại tự cho Nhã là "nói việc phế hưng chính sự nhà vua là do đâu[lower-alpha 19]" còn Trịnh Tiều viết "Nhã thì từ sĩ đại phu ở triều đình làm ra, lời thơ thuần hậu mẫu mực, thể thơ lên bổng xuống trầm có lớp lang, không phải là điều mà hạng hèn mọn, tôi tớ, đàn bà con gái có thể nói lên được[lower-alpha 20]". Lương Khải Siêu cho Nhã là những bài thơ rất phổ thông ở đời Chu.

Tụng

Tụng 頌 gồm Chu tụng 周頌, Lỗ tụng 魯頌 và Thương tụng 商頌, cộng 40 bài. Phần Chu tụng ra đời sớm nhất, là tác phẩm đời Tây Chu. Phần Thương tụng là tác phẩm nước Tống, con cháu nhà Thương, sáng tác vào khoảng giữa thế kỷ thứ 7 - 8 TCN. Còn Lỗ tụng là tác phẩm nước Lỗ vào thế kỉ 7 TCN[9].

Tụng, theo Chu Hy, là "khúc ca tế lễ ở tông miếu"[lower-alpha 21], phần nhiều tán tụng đề cao, ca ngợi công đức của tiên vương, là những sử thi tưởng niệm công đức và cơ nghiệp của tiên tổ, hát kèm theo múa[25]. Sách Thi đại tự cho Tụng là cơ ngợi thịnh đức của nhà vua, "thông qua việc tế tự mà đem sự thành công của mình cáo với thần linh[lower-alpha 22]". Học giả đời Tống là Trịnh Tiều giải thích Tụng "thì thoạt đầu không có ý phúng tụng, chỉ nhằm phô trương công đức to lớn mà thôi, lời thơ nghiêm trang, âm thanh có chừng mực, không dám kể lể rườm rà dông dài, cốt tỏ sự tôn kính[lower-alpha 23]". Còn Lương Khải Siêu cho Tụng vốn nghĩa là dung (dung mạo) cho nên có thể đem ra hát và múa theo âm điệu, gần như một kịch bản diễn xướng.

Mục lục 311 bài thơ trong Kinh Thi

Danh sách các bài thơ trong Kinh Thi ở đây lấy từ bản Kinh Thi do Chu Hy làm Truyện chú thích và viết tựa vào năm 1177. Bộ Kinh Thi này gồm 8 quyển, quyển 1 - 3 là Quốc phong, quyển 4 - 5 là Nhã và quyển 6 - 8 là Tụng[28]. Nội dung các bài thơ ở đây trong giới Thi học vẫn chưa thống nhất, thậm chí còn nhiều bất đồng sâu sắc.

Quốc phong 國風
QuyểnPhầnThứ tựBàiSố chươngSố câuTóm tắt nội dungTóm tắt chú giải của Chu HyGhi chú
1Chu Nam 周南1Quan thư (tiếng kêu chim thư cưu) 關雎320Người con trai nghe tiếng chim thư cưu, chim trống chim mái ứng họa nhau, nhân đó bày tỏ yêu đơn phương với một người con gái, mong cưới nàng làm vợVua Văn Vương nhà Chu cưới nàng Thái Tự. Lúc nàng mới đến, thấy nàng có đức hạnh u tịch, nhàn nhã và đoan chính, người ta làm bài này, ý nói nàng và vua cùng hòa vui mà cung kính lẫn nhau, cũng như tình chí thiết đậm đà mà lúc nào cũng giữ gìn cách biệt của đôi chim thư cưu vậy.
2Cát đàm (cây sắn mọc dài) 葛覃318Tâm sự người vợ dệt vải bằng dây sắn vào ngày thịnh hạ, nhân đó nhờ bà vú trong nhà giặt quần áo cho mình về thăm cha mẹĐức hạnh của hậu phi Thái Tự, đã sang mà còn siêng năng, đã giàu mà còn cần kiệm, đã lớn mà lòng kính mến bà sư phó không giảm, đã lấy chồng mà đạo hiếu với cha mẹ không suy kém, đều là đức hạnh đôn hậu của nàng mà người đời không dễ gì có được
3Quyển nhĩ (rau quyển) 卷耳416Người vợ nhớ chồng, đi hái rau chưa đầy giỏ bỗng nhớ đến người, buồn bã không hái nữa, bỏ quên giỏ rau bên đường. Lại muốn lên núi cao ngóng bóng chồng, nhưng ngựa đau không lên được, đành uống rượu trong lọ vàng để tiêu đi nỗi nhớHậu phi nhớ tưởng đến chồng, vì Văn Vương đi khỏi, mới phô trần tình ý làm bài thơ này, khiến chúng ta nhận thấy nết trinh tịnh chuyên nhất rất mực của nàng, há chẳng phải là làm vào lúc Văn Vương đi chầu hay đi đánh giặc hoặc lúc bị giam ở Dữu lý hay sao? Nhưng không thể khảo cứu rõ ra được
4Cưu mộc (bóng cây sà xuống) 樛木312Đức độ của người biết cưu mang, đùm bọc người khác, vì như bóng cây cong sà xuống mặt đất, che chở cho sắn dây bìm bịp quấn quanhHậu phi năng thi ân cho các người thiếp dưới mình mà không có lòng đố kỵ ghen tương, cho nên các người thiếp mến đức hạnh của bà Hậu phi mà nguyền chúc bà được sống yên với nhiều phúc lộc
5Chung tư (con giọt sành) 螽斯312Khát vọng đông vui con cháu, như loài giọt sành (con giọt sành là loài cào cào dài mà xanh, đẻ trứng một lần nở ra 99 con)Bà Hậu phi không đố kỵ mà con cháu được đông nhiều. Cho nên các người thiếp lấy bầy giọt sành tụ tập hòa hợp để so sánh với con cháu đông đảo của bà. Hễ có đức hạnh không ghen tương ấy thì phải có cái phúc đông con cháu này
6Đào yêu (cây đào tơ) 桃夭312Theo sách Chu lễ, tiết tháng trọng xuân nam nữ hội hợp mà lấy nhau thành vợ thành chồng, thì hễ cây đào trổ hoa là mùa hôn nhân vậy. Ý nói việc lấy chồng hợp thì của người con gái
7Thố tư (lưới bắt thỏ) 兔罝312Hình ảnh người đàn ông bắt thỏ khỏe mạnh, nhanh nhẹnViệc giáo hóa được thi hành, thì phong tục trở nên đẹp đẽ, bực hiền tài đông đảo. Tuy là người quê mùa nơi thôn dã, nhưng tài cán có thể dùng được. Vì thế nhà thơ nhân việc ấy khởi hứng mà khen tặng.
8Phù dĩ (cây xa tiền) 芣苢312Niềm vui hái trái phù dĩ của người phụ nữ, là một bài hát khi lao độngHễ đức hóa thi hành thì phong tục trở nên đẹp đẽ, gia đạo bình yên, phụ nữ được vô sự, cùng nhau đi hái trái phù dĩ, trần thuật việc đi hái để cùng vui với nhau.
9Hán Quảng (sông Hán Thủy rộng) 漢廣324Người con trai yêu đơn phương cô gái bên sông Hán nhưng không dám thổ lộ, ví như sông Hán rộng quá không qua nổi, chỉ biết thầm thương trộm nhớĐức hóa của Văn Vương từ gần mà ra xa, bắt đầu từ khoảng sông Trường Giang, sông Hán để biến cải phong tục dâm loạn của vùng ấy. Cho nên những người con gái đi dạo chơi, người ta trông thấy, nhưng biết là đoan trang tịnh nhất, chẳng phải có thể cầu mong được như thuở trước nữa
10Nhữ phần (bờ sông Nhữ) 汝墳312Sự mong nhớ người yêu của người con gái bên sông Nhữ, thương người yêu đang phải chịu khổ sở, lao dịch dưới sự cai trị bạo tàn khốc liệt của "vương thất"Lúc ấy Chu Văn Vương đã chiếm gần hết thiên hạ, đốc suất các nước ven sông Nhữ làm việc cho Trụ Vương. Người chồng làm việc khổ nhọc mà vua Trụ cứ bạo tàn mãi, người vợ tuy thương xót chồng nhưng khuyên chồng tôn thờ quân thượng, không có tình riêng lả lơi. Thì ơn trạch sâu xa của Văn Vương, phong hóa đẹp đẽ ấy đã có thể nhận thấy được
11Lân chi chỉ (chân con lân) 麟之趾39Lấy hình tượng con thú quý là lân, chân nó không đạp lên cỏ tươi, không giẫm lên côn trùng còn sống mà khen ngợi sự đức độ của cha mẹ, tổ tiên truyền thụ xuống con cháu, đều có đạo đức tốt đẹpChu Văn Vương và Hậu phi lấy đức hạnh tu thân, mà con cháu tông tộc đều hóa ra hiền lành. Cho nên nhà thơ mới lấy chân con lân mà khởi hứng để nói về con của Văn Vương và Hậu phi
Thiệu Nam 召南1Thước sào (tổ chim thước) 鵲巢312Người con gái vu quy về nhà chồng, ví như chim thước xây tổ đẹp mà chim cưu đến ởChư hầu ở nước phương nam chịu sự giáo hóa của Văn Vương đều chính tâm tu thân để tề gia. Còn con gái của chư hầu cũng chịu sự giáo hóa của Hậu phi, đều có đức hạnh chuyên tịnh thuần nhất. Cho nên khi nghe việc gả cho chư hầu thì có trăm cỗ xe đến rước dâu, người nhà khen tặng rằng chim thước có ổ rước chim cưu đến ở.
2Thái phiền (hái rau phiền) 采蘩312Người nữ tì hái rau phiền để làm lễ tế tằm cho nhà công hầu, làm việc quần quật suốt ngày, cho đến tối lễ xong mới được nghỉ ngơiNước phương nam chịu sự giáo hóa của Văn Vvương, bà phu nhân, vợ của chư hầu hết sức thành kính lo việc cúng tế. Người nhà của bà mới kể lại việc ấy mà khen tặng. Hoặc nói rằng rau phiền để nuôi tằm, vì rằng ngày xưa bà hậu phu nhân có lễ thân tằm.
3Thảo trùng (con châu chấu) 草蟲321Mùa hạ đến, châu chấu cào cào kêu vang rộn rã, người chồng không có nhà, người vợ bồn chồn buồn rầu nhớ chồng, tâm sự thành thơNước phía nam chịu sự giáo hóa của Văn Vương, quan đại phu của chư hầu đi làm việc ở ngoài, vợ ở một mình, cảm đến sự biến thay của vạn vật tùy theo mùa theo tiết mà nhớ tưởng đến chồng như thế
4Thái tần (hái rau tần) 采蘋312Người nữ tì hái rau tần, chuẩn bị lễ vật cúng tế cho nhà chủNước ở phía nam chịu sự giáo hoá của Văn Vương, vợ của quan đại phu năng đi việc cúng tế, người nhà của nàng mới kể lại việc ấy mà khen tặng.
5Cam đường (cây lê) 甘棠39Triệu công Thích cai trị đất Triệu (Thiệu), ngồi xử kiện dưới gốc cây lê. Ông đi khỏi, dân nhớ ơn, thương mến cây lê không cho ai đốn ngã, làm thơ về cây lê.Ông Thiệu Bá đi khắp nước phương nam để truyền bá việc đức chính của Văn Vương, có khi ở dưới cây cam đường. Về sau, người ta nhớ đến công đức của Thiệu Bá, thương mến cây cam đường ấy mà không nỡ làm cho nó bị thương tổn.
6Hành lộ (đi đường) 行露315Người con gái cự tuyệt người con trai thô lỗ muốn cưới cô làm vợ, lấy cơ đường khuya sương giá không theo, chê bai người kia thiếu lễ độNgười ở nước phương nam, tuân theo lời dạy dỗ của Thiệu Bá mà phục theo sự giáo hoá của Văn Vương, đã bỏ được thói tục dâm loạn của ngày trước, cho nên người con gái năng lấy lễ giữ mình mà không bị ô nhục vì kẻ ngang tàng vô lễ nữa, mới kể ý chí mình, làm bài thơ này để cự tuyệt với kẻ ấy
7Cao dương (con dê) 羔羊312Ca ngợi vị quan chính trực, thanh liêm, mặc áo da dê giản dị mà dáng vẻ thung dung.Nước phía nam chịu sự giáo hoá theo nền chính trị của Văn Vương, những quan lại tại chức đều cần kiệm chính trực. Cho nên nhà thơ mới khen tặng quan lại, y phục được bình thường không xa hoa (vì cần kiệm), dáng điệu thung dung tự đắc như thế (vì chính trực)
8Ẩn kỳ lôi (tiếng sấm) 殷其靁318Tiếng sấm vang ầm ầm ở phía nam núi nam, người vợ lo người chồng phải vội đi phu, đi lính ở ngoài gặp bất trắc, nhân đó lo lắng mà mong chồng sớm quay vềNước phương nam chịu sự giáo hoá của Văn Vương, người vợ vì chồng đi làm ở ngoài, tưởng nhớ đến chồng mà làm bài thơ này, khen ngợi đức hạnh của chồng, rồi nàng lại mong công việc sớm thành để chàng mau được trở về
9Phiếu hữu mai (quả mai rụng) 摽有梅312Lấy hình ảnh quả mai rơi rụng dần dần khi hết mùa để nói lên nỗi lo lắng của người con gái lỡ thì, chưa lấy được chồngNước phương nam chịu sự giáo hoá của Văn Vương, con gái biết lấy chữ trinh tiết, trung tín để thờ giữ mình, lo cho mình gả chồng không kịp thời mà phải chịu nhục vì kẻ ngang tàng vô lễ
10Tiểu tinh (sao nhỏ) 小星210Than trách số mệnh vì bất đắc chí, ở thân phận nghèo hèn thấp mọn, phải khó khăn phục dịch người quyền quý lúc nửa đêm về sáng (vẫn còn mọc mấy ngôi sao nhỏ)Các bà phu nhân của chư hầu chịu giáo hoá của bà Hậu phi Thái tự, không ghen tuông nữa, thi ân huệ cho kẻ hầu thiếp. Các thiếp được hầu hạ vua, nhưng không dám ở suốt đêm, lấy việc được hầu hạ vua là ân huệ của bà phu nhân mà không than oán về công cán đi lại đêm hôm. Hễ trên chuộng nhàn, thì dưới chuộng nghĩa vậy
11Giang hữu tự (sông Trường Giang chảy tách rồi lại hợp vào) 江有汜315Người vợ sau khi lấy chồng, không dắt theo cô gái đưa dâu làm thiếp cho chồng, cô gái dẵn dỗi lên tiếng trách móc, nói rằng sau này người vợ sẽ phải hối hận.Lúc ấy bên sông có cô gái đưa dâu không được bà phu nhân dẫn theo làm thiếp (tục xưa, hễ gả cho chư hầu, nàng dâu dẫn em/cháu gái đi theo đưa dâu và làm hầu thiếp cho chồng, được cho là vinh hạnh). Sau, phu nhân ấy chịu giáo hoá của Hậu phi, mới rước sang làm thiếp cho chồng, giống như dòng sông tách ra cuối cùng phải nhập vào
12Dã hữu tử khuân (ngoài đồng có con nai chết) 野有死麕311Người con trai muốn lấy người con gái đẹp làm vợ nhưng vô lễ, đem lá bạch mao gói thịt con nai chết ngoài đồng tặng cô gái, bị cô cự tuyệt và chế giễu. Cũng có người cho bài này nói về sự hẹn hò, thề thốt yêu đương[29]Nước phía nam chịu sự giáo hoá của Văn Vương, con gái đều giữ mình trinh tiết, không bị ô nhục vì những người trai ngang tàng vô lễ
13Hà bỉ nùng hĩ (sao dồi dào đông vui vậy) 何彼襛矣312Ca ngợi lễ cưới của con gái Chu Văn Vương là Vương Cơ với con trai vua nước Tề. Vương Cơ không cậy mình cao quý mà kêu căng, hết sức khiêm nhường, cung kính.Vương Cơ, con gái của vua nhà Chu, hạ mình để gả cho chư hầu, y phục và xe ngựa nhiều đông như thế ấy mà không cậy mình là tôn quý để khi dễ nhà chồng. Cho nên, người thấy chiếc xe đưa dâu của nàng, biết ngay là nàng đã cung kính và hoà thuận để giữ trọn đạo làm vợ, mới làm bài thơ này để khen tặng.
14Trâu ngu (con trâu ngu) 騶虞26Ca ngợi lòng tốt, thương xót sự sống đến cả sinh mệnh loài vật, mùa xuân đi săn, bắn năm heo con đực chỉ một phát tên, không có ý giết hết. Thực nhân đức như con trâu ngu không hề ăn loài vật sốngChư hầu phương nam chịu giáo hoá của Văn Vương, lo tu thân tề gia để trị nước. Ân huệ còn thấm nhuần đến loài vật. Cho nên, trong cuộc săn bắn mùa xuân, cỏ cây tươi tốt, cầm thú dồi dào, vua chư hầu đã hành động nhân đức đến như thế (trong năm con heo, chỉ bắn một phát, hạ vài con chứ không giết hết)
2Bội phong 邶風1Bách chu (thuyền gỗ bách) 柏舟530Người đàn bà bị chồng bỏ, bị anh em chê cười, song vẫn kiên quyết giữ ý kiến của mình, dù trong lòng rất buồn.Vợ không được lòng chồng, cho nên lấy chiếc thuyền bằng gỗ bách trôi nổi giữa sóng nước mà ví cảnh tình. Nay xét giọng văn mềm mại nhún nhường, lại ở đầu phần thơ biến phong, mà cũng giống như thiên sau đây, thì há lạ cũng là thơ của nàng Trang Khương đó chăng ?
2Lục y (áo xanh) 綠衣416Người đàn bà bị chồng ruồng rẫy, trong khi hầu thiếp được yêu mến, phẫn uất thổ lộ tâm sựVệ Trang công bị mê hoặc vì người thiếp yêu dấu. Phu nhân là Trang Khương hiền thục mà bị mất địa vị mới làm bài thơ này
3Yến yến (chim én) 燕燕424Người vợ chính thương nhớ nàng hầu thiếp, tiễn nàng về quê, thổ lộ tâm sựBà Trang Khương, vợ đích của Vệ Trang Công, không có con, nhận con của người thiếp Đái Quy, tên là Hoàn làm con. Khi Trang Công mất, Hoàn lên nối ngôi, bị Châu Hu, con của người sủng thiếp giết. Cho nên Đái Quy bỏ về nước Trần luôn, không trở lại nữa. Bà Trang Khương đưa tiễn nàng Đái Quy và làm bài thơ này.
4Nhật nguyệt (mặt trời Mặt Trăng) 日月424Người vợ bị chồng ruồng rẫy, phụ bạc, đau đớn xót xa gọi nhật nguyệt để tâm sựBà Trang Khương không được Vệ Trang Công báo đáp ân tình, mới gọi mặt trời Mặt Trăng để bày tỏ nỗi lòng đau đớn. Tuy bị bỏ rơi như thế, mà Trang Khương vẫn có ý chờ trông. Bài thơ này vì thế mà đôn hậu
5Chung phong (suốt ngày gió) 終風416Người vợ sống với người chồng cuồng si ngu dại, hung bạo như gió bão mịt mù suốt ngàyTrang Công là người cuồng si phóng đãng hung bạo, nhưng vợ là Trang Khương không nhẫn tâm tỏ lời bài xích, cho nên chỉ lấy việc gió bão suốt ngày mà so sánh với tính cuồng bạo
6Kích cổ (đánh trống) 擊鼓520Nỗi lòng người lính phải xa nhà, xa vợ con đi chinh chiếnNgười nước Vệ đi lính đánh giặc ở phương Nam, phải lo về nỗi bị mũi tên ngọn giáo mà chết mất, nguy khổ vô cùng, nhớ người vợ ở nhà không biết có được gặp lại không
7Khải phong (gió nam) 凱風416Lời người con tự trách mình kém tài, không an ủi được mẹ để mẹ phải đi tái giáPhong tục dâm loạn ở nước Vệ lan rộng, người mẹ tuy đã có bảy đứa con còn không thể yên nơi nhà chồng, còn muốn đi lấy chồng nữa, cho nên bảy đứa con ấy làm bài thơ này, tự trách mình không phụng sự được mẹ, không muốn điều xấu xa của mẹ bộc lộ ra. Thật là con có hiếu vậy
8Hùng trĩ (chim trĩ) 雄雉416Người vợ lo nghĩ cho chồng đang phục dịch ở xa xôi cách trở, nhớ thương chồng và mong chàng được lương thiện, bình anNgười vợ vì chồng đi làm ở ngoài xa, cách trở xa xôi, mới nói là chim trĩ bay đi, dáng từ từ tự đắc nhân thế mà nhớ nghĩ về chàng. Lại sợ chồng đi phục dịch ở xa mà phạm điều tội lỗi. Nàng mong cho chồng sẽ ăn ở lương thiện mà được hoàn toàn vậy
9Bào hữu khổ diệp (trái bầu có lá đắng) 匏有苦葉416Lời than của người bị gò bó tình yêuĐây là bài thơ châm biếm kẻ dâm loạn, không tính đến lễ nghĩa, đã chẳng vừa đôi phải lứa mà cố ý phạm lễ để lấy nhau và răn dạy trai gái ắt phải chờ lứa đôi xứng đáng mới chịu thành vợ chồng, để châm biếm những người chẳng chịu làm như thế
10Cốc phong (gió đông) 谷風648Người vợ vất vả gây dựng cơ đồ nhà chồng, nhưng khi anh chồng có vợ mới thì coi như cái gai trước mắt rồi ruồng bỏ đuổi đi. Người vợ bèn kể lại cảnh ngộ bất hạnh, tỏ lòng quyến luyến nhà chồng, nhắc đến mối tình xưa, dứt đi không đành nhưng cũng thể hiện sự oán giận, đau đớnNgười vợ bị chồng bỏ, nên mới làm bài thơ này để kể lại tâm tình sầu oán. Nhưng dù người chồng vui thú với vợ mới, mà chẳng thương xót đến người vợ cũ thì đạo đàn bà chỉ theo có một chồng mà thôi. Nên tuy bị bỏ mà vẫn có lòng trông mong ở chồng, thật là đôn hậu lắm.
11Thức vi (suy vi) 式微28Lời bề tôi trách ông vua chịu hèn hạ, nương tựa nước ngoàiThuyết xưa cho là Lê hầu bị mất nước, sang ở nhờ nước Vệ, có kẻ bầy tôi khuyên rằng "Suy vi quá rồi, sao không trở về vậy thay ! Tôi nếu không vì vua ở đây thì chẳng bị nhục thế này đâu". Bài thơ này không thể khảo cứu được, chỉ nói theo giải thuyết của bài tự
12Mao khâu (cái gò) 旄丘416Chính khách vong quốc trách nước ngoài hứa đến giúp mà không thấy đến tiếp cứu, phải đi lưu vong khổ sởTheo thuyết xưa, bề tôi của vua nước Lê trọ ở nước Vệ đã lâu, lên trên gò thấy cây sắn đã lớn đã dài, nhân đấy trách móc nhẹ nhàng bầy tôi nước Vệ có việc gì mà đã không thấy tiếp cứu. Bài thơ này vốn trách vua Vệ, nhưng chỉ bài xích bầy tôi. Đang khi lưu lạc mà lời nói có thứ tự như thế thì cũng hiểu được người ấy là thế nào rồi
13Giản hề (bỡn cợt) 簡兮418Lời người hiền tài bất đắc chí chịu làm chức khiêm nhường, nhớ tiếc thịnh thế thuở xưaNgười hiền mà bất đắc chí, làm quan coi giữa âm nhạc thời loạn, có lòng khinh đời và phóng túng, cho nên lời nói dường như tự khen mà thật ra là tự nhạo, lại cảm hứng nhớ các vua đời thịnh trị ngày xưaVốn có 3 chương, mỗi chương 6 câu, Chu Hy sửa lại
14Tuyền thủy (nước suối) 泉水424Nhân hình tượng sông Tuyền cuốn nước chảy theo sông Kỳ, cô gái lấy chồng xa nhà dù biết mình phải theo nhà chồng, vẫn nhớ nhà, nhớ cha mẹ, muốn về thăm mà không dám, thốt lên tâm sự trong lòngCô gái nước Vệ gả cho chư hầu, khi cha mẹ mất, muốn trở về thăm nhưng cuối cùng không dám ra đi, dù rất nhớ quê hương. Thánh nhân chép vào kinh sách để nên rõ cho đời sau, khiến cho biết rằng người lấy chồng ở nước khác, khi cha mẹ mất, không có quyền trở về thăm. Người nào năng kiềm chế được mình, thì nhờ đấy mà biết cách ăn ở vậy
15Bắc môn (cửa Bắc) 北門321Lời than thở nghèo khổ, khổ sở của quan lại thời loạnNgười hiền tài nước Vệ ở vào thời loạn, phải thờ hôn quân, vì bất đắc chí cho nên đi ra cửa bắc than nghèo kể khổ, rồi đổ về cho mệnh trời. Tôi trung nước Vệ nghèo khó, mà chẳng ai biết đến, đó là không có đạo yêu kẻ sĩ vậy. Nhưng không trách vua mà trách trời, quả là tôi trung
16Bắc phong (gió bắc) 北風318Lấy hình tượng gió bấc, chồn quạ hiện ra để chỉ cảnh li loạn sắp xảy ra, rủ người thân chạy trốn tị nạn, không thể từ từ khoan thai được nữaNỗi nguy loạn của quốc gia sắp đến nơi, muốn cùng những người thân lánh loạn về nơi khác
17Tĩnh nữ (cô gái nhàn nhã) 靜女312Hai người yêu nhau hẹn hò ở góc thành, người con gái đến chậm khiến chàng băn khoăn chờ đợi sốt ruột. Nàng đến, chàng khen sắc đẹp của nàng. Tình yêu nam nữ dạt dào, thắm thiết
18Tân đài (đài mới) 新臺312Nỗi lòng người con gái gặp người chồng không như ý, xấu xí, hèn hạThuyết xưa cho rằng Vệ Tuyên công đi cưới người con gái ở nước Tề là Tuyên Khương cho con trai tên Cấp. Tuyên Công nghe nàng ấy đẹp, muốn cưới lấy cho mình, bèn dựng lâu đài mới ở trên sông Hoàng Hà để đón. Người trong nước ghét việc ấy, cho nên mới làm bài thơ này để châm biếm
19Nhị tử thừa chu (hai người đi thuyền) 二子乘舟28Thương xót hai anh em giành nhau cái chếtThuyết xưa cho là Vệ Tuyên Công lấy Tuyên Khương, sinh ra công tử Thọ và công tử Sóc. Sóc tố cáo công tử Cấp làm phản. Công sai Cấp đi sang Tề và khiến quân giặc đợi sẵn Cấp ở cửa ải để giết. Thọ biết, mới báo cho Cấp. Cấp không chịu trốn. Thọ bèn đi trước, bị giặc giết. Cấp đến sau, giặc lại giết Cấp. Đau đớn làm sao, cha con anh em tàn sát nhau
Dung phong 鄘風1Bách chu (thuyền gỗ bách) 柏舟214Nỗi lòng người con gái chung thủy với người chồng mình yêu, bất chấp cha mẹ ngăn cấm bắt épThuyết xưa cho rằng thế tử nước Vệ là Cung Bá chết sớm, vợ là Cung Khương thủ tiết. Cha mẹ nàng muốn bắt nàng về để tái giá. Cho nên nàng Cung Khương mới làm bài thơ này để tự thệ nguyện.
2Tường hữu từ (tường bám dây từ) 牆有茨318Chế giễu sự dâm ô bại hoại phong hóa của tầng lớp trênThuyết xưa cho là Vệ Tuyên Công chết, Huệ Công (con kế vị còn nhỏ tuổi), người anh con của mẹ thứ, tên Ngoạn phạm thượng, thông dâm với Tuyên Khương (mẹ của Huệ Công). Thánh nhân sở dĩ ghi vào kinh sử là để khiến cho đời sau biết rằng tuy là lời nói trong khuê phòng cũng không thể che giấu mãi được.
3Quân tử giai lão (cùng chồng đến già) 君子偕老324Tả dung sắc người đẹp mà xấu xa, kém đức hạnhChê bai nàng Tuyên Khương đẹp người nhưng không có đức hạnh
4Tang Trung 桑中321Nam nữ hẹn hò yêu đương, thề thốtPhong tục nước Vệ dâm loạn, những gia tộc quyền quý hay lấy vợ thiếp lẫn nhau. Lời thơ của Dung, Vệ đều là tiếng thời loạn. Những tiếng trong dâu dưới Bộc đều là tiếng mất nước. Chính trị rời rã, nhân dân lưu ly, thói dối gạt bề trên và thi hành tư dục thì không ngăn được. Hai chữ "tang gian" (tiếng dâm loạn trong đám dâu) tức là thiên này
5Thuần chi bôn bôn (chim cút sóng đôi) 鶉之奔奔28Chê cười kẻ loạn luân dâm ôNgười nước Vệ châm biếm Tuyên Khương với công tử Ngoạn, không phải là đôi lứa vợ chồng mà lại theo nhau. Người vô lương, không bằng loài chim cút, chim khách
6Đính chi phương trung (sao Đính giữa trời) 定之方中321Ngợi khen nhà vua chăm lo xây dựng quốc gia, thi hành chính sựNước Vệ bị rợ Địch tiêu diệt. Văn Công dời sang ở Sở Khâu, xây dựng cung thất. Người trong nước yêu mến Văn Công, mới làm bài thơ này để khen tặng.
7Đế đống (mống cầu vồng) 蝃蝀312Lời người con gái nguyện ước tình yêuĐây là bài thơ châm biếm thói dâm bôn. Nói rằng mống ở phương đông mà người ta không dám chỉ trỏ, để ví với việc dâm bôi không thể nói ra được. Con người tuy không thể không tình dục, nhưng phải kiềm chế. Lấy đạo đức mà kiềm chế tình dục thì có thể thuận theo lẽ chính đáng
8Tướng thử (xem chuột) 相鼠312Châm biếm kẻ hỗn hào thiếu lễ nghi
9Can mao (cờ mao) 干旄318Việc quan lại biết thăm viếng kẻ sĩ người hiềnQuan đại phu nước Vệ đi chiếc xe ngựa, có cắm cờ tinh mao để viếng người hiền, làm vào thời Vệ Văn Công. Nước Vệ vốn dâm loạn vô lễ, sau khi bị tàn phá, lòng người lo sợ, cho nên mới làm bài thơ này. Ấy là nói sống trong lo sợ mà chết trong an vui
10Tái trì (đánh xe) 載馳318Lời con gái vua Vệ nóng lòng muốn về thăm nước Vệ. Lúc ấy Vệ bị người Địch diệt, di dân vượt Hoàng Hà về phía đông, tụ tập ở ấp Tào, lập Đái Công nhưng rốt cuộc không đi được, vì vua tôi nước Hứa ngăn cản. Bà phẫn nộ làm thơ này, mắng nước Hứa và kiên quyết bôn ba cứu viện tổ quốcCon gái bà Tuyên Khương làm vợ Mục Công nước Hứa, đau xót vì Vệ mất nước, muốn về thăm anh là Vệ Đái Công ở ấp Tào. Đang đi chưa đến thì quan nước Hứa chạy vội đến, can ngăn. Phu nhân biết là sai lễ, rốt cuộc không trở về. Tiên vương chế ra lễ, cha mẹ có mất cũng không được trở về thăm viếng, đó là nghĩa. Cái nghĩa nặng hơn việc nước mấtVốn có 5 chương, chương 1 và 4 6 câu, chương 2 và 3 4 câu, chương 5 8 câu. Sau hợp chương 2 và 3 làm một.
Vệ phong 衛風1Kỳ cú (khúc quanh sông Kỳ) 淇奧327Lời khen tặng nhà vua tiến ích việc tu thân, như hàng tre mềm mại mà chắc chắn ven khúc quanh sông KỳNgười nước Vệ khen tặng đức hạnh của Vệ Vũ công, lấy cây tre mới mọc xanh um để khởi hứng sự tiến ích về học vấn và tu thân. Theo sách Quốc ngữ, Vũ Công tuổi đã 95, ra lệnh cho quan lại phải thường xuyên can gián mình. Vũ Công có văn chương mà chịu nghe can gián, các vua khác của nước Vệ thực không theo kịp
2Khảo bàn (làm nhà) 考槃312Tình cảnh người hiền đi ở ẩn nhàn nhã, vui thú
3Thạc nhân (người đẹp) 碩人428Tả nàng Trang Khương, vợ Vệ Trang Công, từ lai lịch dung nhan cho đến tùy tòng của bàNàng Trang Khương đẹp mà không con, người Vệ mới làm bài này khen tặng sự tôn quý gia tộc nàng, than thở sự mê hoặc của Vệ Trang Công.
4Manh (gã kia) 氓660Lời người con gái trách người yêu cũng là người chồng phụ bạc, li dị. Nàng đau khổ hối hận, giận dữ, thấy trong yêu đương nam nữ thật bất bình đẳng, trách mắng người chồng, quyết tâm cắt đứt tình cảm. Thái độ cứng cỏiNgười vợ này bị phụ bỏ, kể lại nỗi hối hận ăn năn. Nàng mưu tính hẹn hò với người con trai nhưng trách hắn không có mối mai để làm khó khăn. Lại ước hẹn lần nữa để hắn vững lòng, kế này cũng xảo quyệt lắm, để chế ngự gã ngơ ngáo kia. Nhưng đã hư thân rồi thì người ta khinh hèn ghét bỏ nên gã ấy, tuy mới đầu ham mê u ám, sau ắt tỉnh ngộ. Cho nên với tính dâm bôn, nàng không làm gì mà cũng bị khốn, bị chồng bỏ, anh em chê cười. Kẻ sĩ quân tử lập thân, một lần thất bại mà vạn sự đều tiêu tan, có thể không cẩn thận răn phòng sao ? Lại con gái chớ phải lòng con trai. Người đàn bà chỉ lấy trinh tín làm tiết tháo thôi. Mà con trai mê gái không phải không có hại đâu nhé!
5Trúc can (cần câu) 竹竿416Nỗi lòng người con gái lấy chồng ở xa nhớ nhàCon gái nước Vệ gả cho chư hầu, muốn trở về thăm cha mẹ, mà không thể đi được, cho nên làm bài thơ này, nói muốn lấy cành tre để câu cá ở sông Kỳ, nhưng xa không thể đến nơi được
6Hoàn lan (cây hoàn lan) 芄蘭212Chế giễu chê bai đứa trẻ nhà quyền quý ăn mặc ra dáng người lớn mà tự kiêu
7Hà quảng (sông Hoàng Hà rộng) 河廣28Con gái bà Tuyên Khương được gả làm phu nhân Tống Hoàn công, sinh ra Tống Tương công, rồi trở về ở nước Vệ. Tương Công lên ngôi, phu nhân nhớ con nhưng mẹ đã bỏ ra thì đã tuyệt với tông miếu, không thể lấy tình riêng mà trở về được, cho nên làm bài thơ này. Nước Vệ có thơ của phụ nữ, từ Trang Khương đến mẹ Tương Công là sáu người, đều dừng lại trước lễ nghĩa mà không dám vượt qua. Việc giáo hóa của tiên vương vẫn còn vậy!
8Bá hề (chàng ơi) 伯兮416Nỗi nhớ người chồng xa cách đi chinh chiến của người vợNgười vợ có chồng đi chinh chiến, nhan sắc không thiết chăm chút, nhớ chồng đến choáng váng. Việc binh đao hại dân chúng vào đường tử vong, làm mồ côi goá bụa cho nên bậc thánh vương thịnh thời thận trọng binh đao, bất đắc dĩ phải dùng. Còn thơ thời loạn chép nỗi đau khổ nhớ nhung của gia thất, vì tâm tình của con người không ngoài việc đó.
9Hữu hồ (có con chồn) 有狐312Nỗi lòng người quả phụ muốn tái giáNước loạn, dân mất, tan cả đôi lứa. Có người đàn bà goá thấy người đàn ông goá thì muốn lấy nhau, cho nên mới mượn lời nói có con chồn đi một mình mà thương cho người ấy ở goá, không có ai may quần cho mặc
10Mộc qua (cây đậu mộc) 木瓜312Lời trai gái tặng đáp, hẹn hò yêu đươngNghi là lời trai gái tặng đáp nhau như ở bài Tĩnh nữ vậy. Nước Vệ ở bên sông lớn, đất ít và thấp lại phì nhiêu, nên huyết khí con người nông nổi, nhu nhược, lười biếng. Con người mà tính tình như thế, thì giọng nói tiếng hát cũng dâm loạn xa xỉ. Cho nên nghe tiếng nhạc ấy, người ta trở nên lười biếng mà dâm tà.
Vương phong 王風1Thử ly (lúa nếp) 黍離330Xúc cảm về thời xưa cũ huy hoàng nay đã điêu tànNhà Chu đã dời về phía đông, quan đại phu đi làm việc, bước đến đất Tông Chu (kinh đô nhà Chu thời Chu Vũ Vương), ngang qua tông miếu và cung thất xưa, nay đã là ruộng lúa nếp, thương xót nhà Chu nghiêng đổ mà bàng hoàng không nỡ bước đi. Cho nên phô trần những điều đã trông thấy thành thơ
2Quân tử vu dịch (chàng đi tòng quân) 君子于役216Nỗi nhớ mong người chồng tòng quân của vợQuan đại phu đi làm đã lâu ở ngoài, vợ ở nhà tưởng nhớ mà bày tỏ tâm tình, không biết khi nào chồng trở về
3Quân tử dương dương (chàng đắc ý) 君子陽陽28Cảnh tượng gia đình vui vẻ, thắm thiết khi người chồng đi xa trở vềBài thơ này nghi cũng là do người vợ ở bài Quân tử vu dịch làm ra. Vì rằng chồng nàng trở về, không lấy việc đi làm là vất vả lao nhọc, mà yên phận nghèo hèn làm vui. Người nhà biết ý chàng mà khen tặng đậm đà, thì có thể nói là người hiền vậy. Cho nên, há chẳng phải ơn trạch của tiên vương đấy ư ?
4Dương chi thủy (dòng nước lững lờ) 揚之水318Nỗi lòng người lính thú đóng đồn ở xa nhớ vợ conVua Chu Bình Vương cho là nước Thân ở gần nước Sở, bị nhiều lần xâm phạm, mới khiến dân chúng ở Lạc Ấp đi đóng đồn trấn giữ cho. Những người đi lính thú ấy than oán nhớ nhà, làm bài thơ này. Thân Hầu cùng với rợ Khuyển Nhung giết Chu U Vương, lập Bình Vương. Theo luật, Thâu Hầu phải bị tru di. Thế mà Bình Vương quên cha và trái lễ, đắc tội với thiên hạ quá lắm. Cho nên dân Chu không phục mà than oán nhớ nhà.
5Trung cốc hữu thôi (trong hang có cây thôi) 中谷有蓷318Lời than thở của người vợ bị chồng lìa bỏNăm mất mùa đói kém, vợ chồng phụ bỏ nhau, người vợ thấy vật khô héo mà khởi hứng, tự thuật lại lời sầu than. Chính trị của nhà Chu hoang phế, dân chúng lìa tan, mà rồi sẽ không lấy gì làm quốc gia nữa, chỉ ở đây cũng có thể nhận thấy rồi
6Thố viên (con thỏ thư nhàn) 兔爰321Nỗi lòng của người quân tử trải thịnh rồi loạn, đau xót tiếc nuốiNhà Chu suy hèn, chư hầu bội phản, người quân tử không vui sống, mới làm bài thơ này
7Cát lũy (dây sắn) 葛藟318Lời than thở của người dân trôi nổi tha hương trong thời loạn lạcĐời lụn suy, dân ly tán, có kẻ bỏ làng quê gia tộc, mất chỗ nương náu, trôi nổi lênh đênh, mới làm bài thơ này để tự than thở
8Thái cát (hái dây sắn) 采葛39Nỗi nhớ tha thiết người yêu, "một ngày không thấy tưởng ba thu"Đây là đứa dâm bôn nói thác như thế để ra đi, cho nên chỉ người yêu mà nói mong nhớ quá sâu đậm, chưa lâu mà tưởng lâu vậy
9Đại xa (xe quan đại phu) 大車312Trai gái yêu nhau nhưng sợ pháp luật và người có quyền thế nghiệt ngã mà không dám đến với nhauNhà Chu suy, nhưng quan đại phu còn lấy hình pháp và chính trị sửa trị tư ấp của mình. Cho nên đứa dâm bôn kính sợ mà hát như thế. Nhưng đối với giáo hoá của thơ Chu Nam và Thiệu Nam thì cách xa rồi. Do đấy, có thể xem xét thấy đời đã biến đổi
10Khâu trung hữu ma (trong gò có lúa ma) 丘中有麻312Lời chế giễu, pha chút ghen tuông của cô gái khi người yêu không đến chỗ hẹnNgười con gái này mong đợi chàng trai tự tình với mình, nhưng chàng ấy không đến, cho nên nghi rằng trên gò chỗ có lúa ma lại có một nàng khác đang tư tình với chàng mà giữ chàng lại. Chàng làm sao vui vẻ mà đến với nàng ấy được ?
3Trịnh phong 鄭風1Tri y (áo đen) 緇衣312Áo đen là áo quan đại phu đời Chu. Tình cảm của nhân dân với các vị quan hiền tàiThuyết xưa nói rằng Trịnh Hoàn xôngTrịnh Vũ công nối nhau làm Tư đồ cho nhà Chu, làm rất giỏi chức vụ của mình. Nhân dân nhà Chu thương mến hai ngài mà làm bài thơ này
2Tương (hoặc Thương) Trọng Tử (xin chàng Trọng Tử) 將仲子324Tình yêu bị gò bó, cô gái dặn chàng trai không nên đến nhà tìm cô vì sợ cha mẹ anh em quở trách, dù cô rất yêu chàngĐây là lời kẻ dâm bôn
3Thúc vu điền (Cung Thúc Đoạn đi săn) 叔于田315Cung Thúc Đoạn[30] bất nghĩa mà được lòng dân, nên người trong nước thương mến mới làm bài thơ này. Hoặc nghi đây cũng là lời của con trai con gái trong nhân gian yêu mến nhau
4Thái thúc vu điền (Cung Thúc Đoạn đi săn) 大叔于田330Ca ngợi tinh thần dũng cảm và kĩ thuật cưỡi ngựa bắn cung của một võ sĩ lúc đi sănNgười trong nước răn Cung Thúc Đoạn rằng "Xin ngài chớ tập quen đi săn, e có khi sẽ bị thương". Vì Cung Thúc Đoạn nhiều tài, lại thích vũ dũng, khiến dân nước Trịnh thương yêu đến như thế
5Thanh nhân (người Thanh) 清人312Tình cảnh quân đội rã rời nhụt khí chiến đấuTrịnh Văn công ghét Cao Khắc, đem binh ở ấp Thanh phòng ngự rợ Địch trên bờ sông Hoàng Hà, phòng ngự ở đấy đã lâu mà không được triệu hồi, quân lính mới tản ra mà trở về, người nước Trịnh làm bài thơ này để phô bày việc ấy ra
6Cao cầu (áo da dê) 羔裘312Lời khen tặng quan đại phu không thay đổi tiết tháoNói áo da trơn mướt, lông xuôi thuận mà đẹp. Vị kia mặc áo ấy, trong cảnh hiểm nguy sống chết biết đặt mình theo lẽ phải mà chịu đựng, và không cải đoạt biến thay ý chí của mình. Ấy là lời khen quan đại phu, nhưng không biết nhắm vào ai
7Tuân đại lộ (đi theo đường cái) 遵大路28Người con gái trách chồng ruồng rẫy mìnhNgười đàn bà dâm bôn bị người ta ruồng bỏ, nàng liền nắm lấy vạt áo chồng mà giữ lại, van xin chồng đừng phụ bạc
8Nữ viết kê minh (nàng nói gà gáy) 女曰鷄鳴318Người vợ khuyên chồng phận sự kẻ làm trai, gia đình hòa thuậnĐây là nhà thơ thuật lại lời của người vợ khuyên khéo chồng phải dậy sớm săn bắn để thực hiện phận sự nam nhi, vợ chồng cùng vui. Niềm vui hoà hảo không dâm có thể thấy được
9Hữu nữ đồng xa (cô gái cùng xe) 有女同車212Tả người con gái đẹp đẽ, đức hạnh đi cùng xe
10Sơn hữu phù tô (núi có cây phù tô) 山有扶蘇28Lời người con gái trêu ghẹo tình nhânNgười con gái dâm loạn nói giỡn với người nhân ngãi đang tự tình rằng "Trên núi thì có cây phù tô, dưới thấp có hoa sen. Nay sao chẳng gặp người đẹp trai tử tế, mà chỉ thấy anh khùng này thôi"
11Thác hề (cây khô) 蘀兮28Người con gái mạnh dạn mời con trai cùng nhảy múaĐây là lời nói của người con gái dâm loạn
12Giảo đồng (thằng bé gian xảo) 狡童Đây là lời người con gái dâm loạn bị bỏ rơi mỉa mai người tình
13Khiên thường (vén quần) 褰裳210Người con gái trêu ghẹo, chê bai người con trai làm cao, không đoái hoài đến tình cảm của côLà lời người con gái nói với người tình
14Phong (đẹp đẽ) 丰416Người con trai được người con gái hẹn hò đã đến đợi ở ngoài cửa, mà người con gái lại có tình ý khác, chẳng chịu đi theo. Thế rồi nàng hối hận, mới làm bài thơ này
15Đông môn chi thiện (chỗ cúng ở cửa Đông) 東門之墠28Người con gái yêu đơn phương chàng trai, nhớ đến chỗ chàng ở mà than thở sao chàng không đến với mìnhBên cửa thành có miếng đất phẳng để cúng tế, phía ngoài miếng đất phẳng ấy có bờ dốc, trên bờ dốc có cỏ như lư, nàng nhớ chỗ ở của người thông gian với nàng ở đấy
16Phong vũ (mưa gió) 風雨312Niềm vui ngây ngất của cô gái khi gặp người cô yêu
17Tử khâm (áo chàng) 子衿312Cô gái nhớ thương người yêu tha thiết, nhớ đến cả y phục chàng mặc
18Dương chi thủy (nước chảy lững lờ) 揚之水212Cô gái khuyên người yêu giữ trọn niềm tin giữa hai ngườiĐứa dâm loạn bảo nhau rằng, dòng nước chảy chậm chạp lững lờ, không cuốn trôi được bó gỗ. Rốt cuộc anh em ruột thịt của em và chàng đều ít, chỉ có đôi ta, há lại lấy lời nghi gián của người khác mà nghi kỵ hay sao ? Lời của người ấy chỉ riêng dối gạt anh mà thôi
19Xuất kì Đông môn (ra khỏi cửa Đông) 出其東門212Lòng chung thủy mến thương vợ của người chồng, không xao xuyến trước các cô gái khácLúc ấy, thói dâm loạn đã lan tràn, nhưng trong khoảng đó, lại có người như thế, cũng có thể gọi là biết giữ mình trong sạch mà không bị thói tục biến đổi. Xem thế thì câu nói "lòng biết thẹn, biết xấu, ai cũng có" há lại không tin như thế hay sao ?
20Dã hữu man thảo (ngoài nội có cỏ mọc lan) 野有蔓草212Sự tâm đầu ý hợp của đôi trai gái tình cờ gặp nhauTrai gái gặp nhau ngoài đồng ruộng đầy cỏ sương, nói ngoài đồng nội có cỏ mọc lan ra, thì sương lộ rơi xuống đậm đà. Có một người đẹp, mày đẹp mắt trong, tình cờ không hẹn mà gặp, rất hợp ý nguyện của ta.
21Trăn Vĩ[31] 溱洧224Trai gái dạo chơi hẹn hò bên bờ sông, trao nhau tình cảm thắm thiếtTheo phong tục nước Trịnh, vào ngày tỵ trong thượng tuần tháng ba, người ta hái hoa lan ở trên bờ sông để trừ tai và cầu phúc. Cho nên cô gái yêu cầu cậu con trai cùng đi nô đùa với nhau ở đấy, rồi lại lấy hoa thược dược mà tặng để kết ân tình nồng hậu
Tề phong 齊風1Kê minh (gà gáy) 雞鳴312Lời người hiền phi khuyên nhà vua ra chầu sớm, lo toan công việc quốc gia. Cũng có người cho rằng đây là cuộc đối thoại giữa vua và hiền phi, bà thì bảo gà gáy, trời đã sáng; vua lấy lý do tiếng ruồi bay, trời sáng trăng để nói đêm còn sớm[32]. Cốt vẫn là ca ngợi bà hiền phiNgười hiền phi hầu bên vua, lúc gần sáng, tâu với vua rằng "Gà đã gáy rồi, triều thần đã đầy đủ", vua dậy sớm ra chầu. Thật ra chẳng phải gà gáy, mà là tiếng ruồi xanh bay, bà hiền phi nghe tiếng ruồi mà nhận là tiếng gà. Nếu chẳng phải lòng nàng lo sợ e dè để khỏi phải lâm vào con đường dật dục, thì làm sao lại được như thế ?
2Tuyền (nhanh nhẹn) 還312Lời châm biếm vua chúa, quan chức ham săn bắn mà quên việc chính trị, gặp nhau thì chỉ khen ngợi nhau săn tài bắn giỏi, tuyệt nhiên không nói đến việc nướcVua chúa, quan lại ham săn bắn bỏ phế việc chính trị. Họ gặp nhau ở bên đường, lại lấy việc nhanh nhẹn khen tặng nhau, mà chẳng tự biết việc sai lầm của mình, thì phong tục không được đẹp đẽ có thể nhận thấy
3Trử (ngoài cửa) 著39Cảnh chàng rể chờ rước cô dâu Về hôn lễ, chàng rể đến nhà vợ để rước dâu, sau khi đã làm lễ trao chim nhạn thì đánh xe mà trở về trước, đứng đợi ở ngoài cửa. Khi cô dâu đến, chàng rể chắp tay vái chào mà đưa vào. Lúc ấy, phong tục nước Tề không có rước dâu, cho nên cô dâu đến cửa mới thấy chàng rể đứng chờ mà thôi
4Đông phương chi nhật (mặt trời phương đông) 東方之日214Trai gái yêu nhau quấn quýt không rời
5Đông phương chi vị minh (trời đông chưa sáng) 東方未明312Lời châm biếm quan coi giờ không hoàn thành nhiệm vụ, hiệu lệnh nhà vua nhiều chỗ sai lầmViệc đi chầu của quần thần, khi sáng rõ, phân biệt được màu sắc mới nhập triều. Nhà thơ này châm biếm vua của mình ăn uống thức ngủ không có thời tiết, hiệu lệnh sai khiến không có giờ khắc, khiến quần thần phải chịu đựng khổ sở, vội vã vào triều không chuẩn bị được gì cả
6Nam sơn (núi Nam) 南山424Lời châm biếm sự bại hoại đạo lý, loạn luân trong tầng lớp thống trị nước TềNúi Nam nước Tề là đất của nước Lỗ. Nàng Văn Khương, em gái của Tề Tương công, phu nhân của Lỗ Hoàn công, cùng chồng đến nước Tề năm 694 TCN, bị Tương Công thông dâm. Tương Công làm vua ở ngôi cao, nhưng vẫn theo nết hạnh dâm tà mà Hoàn Công quản lý vợ không nghiêm, đều đáng trách
7Phủ điền (ruộng lớn) 甫田312Bài thơ nầy răn người đương thời ghét việc nhỏ mà lo làm việc to, bỏ việc kề gần mà mưu tính việc xa, sẽ chỉ lao nhọc mà không ra công cán gì. Cứ theo thứ tự mà lo liệu thì có thể chợt thình lình đến mức tột cùng được. Nếu vượt bực mà muốn mau gấp, thì trái lại, có khi không thành
8Lô linh (tiếng chó sủa và tiếng vòng đeo cổ) 盧令36Tả buổi đi săn của người quyền quý, có con chó săn màu đen cổ đeo vòng nhạc, vừa chạy vòng vừa kêuĐại ý giống bài Tuyền
9Tệ cẩu (cái đó bắt cá rách) 敝笱312Năm 692 TCN, phu nhân Văn Khương gặp Tề Hầu ở đất Chước. Năm 690 TCN, thết đãi Tề Hầu ở Chúc Khâu. Năm 689 TCN, đến Tề Sư. Năm 687 TCN, gặp Tề Hầu ở đất Phòng, lại gặp Tề Hầu ở đất Cốc. Người nước Tề lấy việc cái đó rách không bắt được cá to mà ví với Lỗ Trang Công không ngăn được bà Văn Khương dâm loạn
10Tái khu (xe rong ruổi) 載驅416Người nước Tề châm biếm Văn Khương đi xe đến "hội họp" với Tề Tương Công
11Y ta (dồi dào thay) 猗嗟318Người nước Tề hết sức khen tặng Lỗ Trang công có uy nghi, khéo léo và giỏi giang để châm biếm ông không biết lấy lễ ngăn ngừa mẹ. Chồng mất thì theo con, lẽ ấy đã thông dụng khắp thiên hạ, huống hồ là bực làm vua. Việc phu nhân Văn Khương như thế vì Trang Công thương kính không được đúng mức, uy quyền và mệnh lệnh không thi hành.
Ngụy phong 魏風1Cát cú (dép gai) 葛屨212Chế giễu thói keo kiệt, vụn vặt của người gia trưởng. Hoặc cũng là tâm sự của người đầy tớ gái, may áo cho bà chủ mặc nhưng bà chủ quay đi, không thèm nhìn, khiến cô uất ức châm biếmĐất đai nước Nguỵ chật hẹp, phong tục cần kiệm hà tiện mà lại hẹp hòi nóng nảy, cho nên mới lấy việc dùng dép bằng gai để đi giẫm lên sương mà khởi hứng, châm biếm việc sai khiến nàng dâu mới cưới chưa làm lễ yết kiến tông miếu, phải may quần và lại khiến nàng vá sửa lưng quần cổ áo để mặc vào ngay
2Phần tứ nhu (bãi trũng sông Phần) 汾沮洳318Đây cũng là bài thơ châm biếm việc cần kiệm thái quá không đúng lễ
3Viên hữu đào (vườn có đào) 園有桃224Nhà thơ lo cho nước nhỏ bé mà không có nền chính trị tốt mới làm bài thơ này, than thở rằng mình lo âu vì việc nước mà bị người đời chê là kiêu ngạo. Người lo âu lại càng than thở, vì việc đáng lo ấy vốn không phải điều khó hiểu. Kẻ chê ta chỉ vì chưa suy nghĩ đến thôi. Nếu thành thật mà suy nghĩ đến thì sẽ tự mình sầu lo vậy
4Trắc hộ (lên núi) 陟岵318Tâm tình nỗi lòng của người thân khi có người nhà đi phu phen, binh dịchĐứa con có hiếu đi quân dịch ở xa, không quên cha mẹ, mới lên núi ngóng trông về nơi cha đang ở, nhân đấy tưởng tượng cha đang nhớ đến mình
5Thập mẫu chi gian (ở trong mười mẫu) 十畝之間26Chính trị hỗn loạn, quốc gia khuynh nguy, người hiền tài không thích làm quan trong triều đình, mà lo cùng bè bạn trở về vườn ruộng, cho nên thốt ra những lời như thế
6Phạt đàn (chặt gỗ đàn) 伐檀327Người đẵn gỗ làm suốt ngày bên bờ sông nhưng không no đủ cái ăn, còn người "quân tử" không cày cấy, săn bắn mà lúa thóc, thịt thà đầy nhà. Từ đó, lời thơ nêu ra và châm biếm sự bất công vô lý trong quan hệ giữa các tầng lớp xã hộiNhà thơ nói, có người dùng sức đốn cây đàn làm xe mà đi, nay để khúc cây ấy bên bờ sông thì gỗ không dùng vào việc gì cả. Cũng như muốn tự làm tự ăn mà không thể được vậy. Nhưng chí của người ấy cho là nếu không chịu cày cấy thì không thể có lúa, không săn bắn thì không thể có thú. Thế nên cam chịu cùng quẫn thiếu đói mà không hối hận gì. Người quân tử chẳng chịu ngồi không mà hưởng thụ
7Thạc thử (chuột to) 碩鼠324Lấy hình tượng con chuột to để ví với tầng lớp thống trị trong xã hội, đồng thời cũng nêu lên khao khát được sống trong xã hội không bị bóc lột, áp bứcDân chúng đã khốn đốn vì chính trị tham tàn, cho nên nói thác rằng vì con chuột to đã làm hại mình mà bỏ đi nơi khác
Đường phong 唐風1Tất suất (con dế) 蟋蟀324Phong tục nước Đường cần kiệm, dân chúng lao khổ suốt năm, không dám nghỉ ngơi. Đến cuối năm, dế kêu, rảnh việc đồng áng mới dám yến ẩm cho vui, nhưng vẫn răn nhau không được ham vui quá mà quên việc. Vì phong tục của dân đôn hậu, phong hoá của thánh nhân đời trước sót lại nên sâu xa như thế
2Sơn hữu xu (núi có cây xu) 山有樞324Triết lý ngụ rằng, ai rồi cũng chết, nên vui chơi cho thỏa, chớ đừng bo bo tằn tiệm quá. Có người cho đây là lời của quý tộc sa sút, muốn hưởng thụ nốt của cải, thể hiện tư tưởng bi quan chán chường[33]Bài thơ này cũng có ý đáp lại bài "Tất suất" mà giải nỗi ưu lo ấy. Nói rằng trên núi có cây xu, dưới thấp có cây du, ngài có áo quần xe ngựa mà không mặc, không đi, nhỡ một hôm ngài chết thì người khác hưởng mất. Vì vậy không thể nào không vui chơi cho kịp thời
3Dương chi thủy (nước trôi lững lờ) 揚之水318Dân chúng che chở, ủng hộ người quân tử dựng nướcTấn Chiêu hầu phong cho người chú là Thành Sư ở đất Khúc Ốc, gọi là Hoàn Thúc. Về sau, Ốc cường thịnh, Tấn suy vi, người Tấn phản lại mà theo Ốc, cho nên làm bài này. Nói rằng, nước chảy chậm, đá vút cao để sánh với việc Tấn suy, Ốc thịnh. Hoàn Thúc sắp khuynh đảo nước Tấn, được dân chung che giấu cho, vì muốn ngài thành công. Kẻ bề tôi phản loạn, muốn thi hành chí mình, trước phải thi ân nhỏ mọn để thu nhân tâm, rồi sau dân mới hợp nhau mà theo
4Tiêu liêu (cây tiêu) 椒聊212Cây tiêu nảy nở lan ra, hái trái để đầy thăng. Đấy không biết trỏ vào ai. Bài tự ở sách Mao thi cũng cho là nước Ốc (nước Ốc của Hoàn Thúc thì thịnh vượng, còn nước Tấn thì suy vi).
5Thù mâu (quấn quýt) 綢繆318Lời trai gái mừng rỡ vì được thành vợ chồngNước loạn dân nghèo, nam nữ cưới gả trễ mùa rồi sau mới cưới được thành hôn lễ. Việc thành, vợ chồng tâm sự với nhau
6Đệ đỗ (cây đỗ lẻ loi) 杕杜218Đây là lời của người không có anh em, tự xót thương cho mình cô độc mà cầu xin người giúp đỡ. Cây đỗ lẻ loi một mình mà lá vẫn xanh tươi rườm rà, còn người không có anh em thì đi một mình lẻ loi, chẳng được như cây đỗ vậy
7Cao cầu (áo da dê) 羔裘28Thiên này là lời châm biếm quan đại phu nước Tấn không ưa dân, không chịu gần gũi dân
8Bảo vũ (cánh chim bảo) 鴇羽321Dân chúng phải đi tùng chinh, không được nuôi dưỡng cha mẹ, cho nên làm bài thơ này. Nói tính chim bảo không hay đậu trên bụi cây, mà nay lại đậu trên bụi cây hủ, như dân vốn không tiện lao khổ, mà đánh giặc đã lâu không được tròn phận làm con. Trời xanh xa vời kia, lúc nào khiến cho ta được nơi yên ổn để phụng dưỡng cha mẹ ?
9Vô y (không có áo) 無衣26Năm 679 TCN, Tấn Vũ công là cháu Hoàn Thúc ở đất Khúc Ốc, diệt nước Tấn, lấy hết đồ báu của Tấn đem hối lộ cho Chu Ly Vương. Ly Vương cho làm vua Tấn, liệt vào hàng chư hầu. Bài này thuật lại ý cầu xin mệnh lệnh nhà Chu của Vũ Công. Lúc ấy, Chu suy, nhưng phép tắc vẫn còn. Vũ Công mang tội giết vua đoạt nước thì phải đánh phạt. Ly Vương tham của báu mà không biết đến kỷ cương phép tắc. Than ôi! Đau xót thay!
10Hữu đệ chi đỗ (có cây đỗ lẻ loi) 有杕之杜212Người này thích hiền tài, nhưng ngại mình không đủ đức để khiến họ đến với mình. Nói rằng cây đỗ lẻ loi mọc ở ven đường, bóng mát không đủ để người ta nghỉ ngơi. Nhưng lòng thích quân tử mãi không thôi, chỉ hiềm không biết làm sao để họ đến cho mình nuôi dưỡng. Ôi, tấm lòng háo hiền như thế, có lẽ nào mà bực hiền tài lại không đến ?
11Cát sinh (cây sắn dây) 葛生520Người vợ vì chồng đi quân dịch lâu không thấy về, cho nên nói dây sắn mọc mà phủ lên cây sở, cỏ liêm mọc lan ra ngoài đồng, mỗi loại cây đều có nơi nương tựa, còn ta chẳng có chồng mà nương tựa
12Thái linh (hái linh) 采苓324Đây là bài thơ châm biếm người ưa nghe lời gièm pha. Nói rằng có người nói hái cây linh thì lên đỉnh núi Thủ Dương, nhưng chớ vội tin lời ấy. Phải thủng thẳng xét xem, nghe ngóng phán đoán, thì kẻ kia chẳng được kết quả gì, tất việc gièm pha phải dứt ngay
Tần phong 秦風1Xa lân (xe chạy rầm rầm) 車鄰316Lời ca ngợi vị vua hiền minh, đáng thơLúc ấy vua Tần mới có xe ngựa, người trong nước mới thấy lần đầu khoe khoang khen ngợi
2Tứ thiết (bốn ngựa) 駟驖312Vua tôi hòa hợp cùng đi săn bắn
3Tiểu nhung (xe binh) 小戎330Tướng công nước Tần, vâng mạng lệnh thiên tử nhà Chu đi đánh rợ Tây Nhung. Cho nên người nhà đi theo đánh giặc, trước thì khoe binh xa áo giáp nhiều, sau thì kể nỗi tình riêng. Vì nghĩa mà dấy binh, thì dẫu đàn bà con gái cũng biết mạnh dạn xông ra cự địch mà không hề oán thán
4Kiêm gia[34] (lau lách) 蒹葭324Giống như bản tình ca, nói về một sáng sớm mùa thu, sương trên lau sậy chưa tan, một người đi tìm một người, phảng phất trông thấy mà tìm không thấyNói mùa tiết thu nước vừa đầy, người kia lại ở về một phương của vùng nước mênh mông, lai láng. Đi ngược lên hay đi xuôi dòng đều không gặp được. Không biết chỉ về ai mà nói thế
5Chung Nam (núi Chung Nam) 終南212Đây là lời nói của người nước Tần, khen tặng vua mình, cũng đồng một ý tứ với Xa lân, Tứ thiết
6Hoàng điểu (chim hoàng ly) 黃鳥336Bài vãn ai điếu ba người hiền họ Tử Xa bị chôn sống theo Tần Mục côngNăm 620 TCN, Tần Mục công chết, nước Tần đem chôn ba anh em họ Tử Xa là Yểm Tức, Trọng Hàng, Châm Hổ theo Mục công, họ đều là bậc hiền tài. Người Tần thương xót, mới làm bài này để phô bày việc ấy. Xét thấy Mục Công làm thế, tội lỗi không thể trốn tránh nhưng thói ấy thành lệ thường ở Tần, thì dẫu Mục Công là người hiền đức cũng không tránh khỏi. Nhà Chu không giữ giềng mối, chư hầu tự chuyên, giết người không kiêng sợ, phong tục tệ hại thay!
7Thần phong (chim cắt) 晨風318Người vợ vì chồng đi vắng, chưa thấy được chàng, lòng buồn lo không thể dứt được. Nhân đó mà than người chồng sao nỡ quên mình đến thế ? Bài này đồng một ý với bài Diễm di ca do vợ Bách Lý Hề hát. Vì đó là phong tục nước Tần
8Vô y (không có áo) 無衣315Lòng hăng hái kháng chiến chống xâm lược Khương Nhung của dân TầnPhong tục nước Tần mạnh tợn hung hăng, ưa việc chiến đấu. Cho nên người Tần nói với nhau, sắp dấy binh theo lệnh thiên tử, phải sửa soạn giáo mâu để đi đánh kẻ thù, anh không có áo thì mặc chung với tôi. Đó là lòng yêu thương lẫn nhau đã đủ khiến người ta cùng chết với nhau như thế. Tần đất dày, sông sâu, dân chúng trọng hậu, chất phác, ngay thẳng, lấy điều thiện để dẫn dắt dân chúng, lấy mạnh bạo mà khu xử dân chúng, nước vùng Sơn Đông không thể nào theo kịp được.Đời sau nếu không muốn lo toan cái kế sách dựng nước thì thật không thể nào không lấy đó làm gương
9Vị Dương 渭陽28Tấn Văn công, hồi còn làm công tử Trùng Nhĩ, chạy loạn đến Tần, anh rể ông là Tần Mục công dung nạp. Sau rời Tần, cháu gọi ông bằng cậu là Tần Khang công (hãy còn làm Thái tử) đi tiễn, tưởng nhớ đến mẹ đã mất, làm bài này.
10Quyền dư (lúc ban đầu) 權輿210Lời người hiền lần lần bị bạc đãi than trách. Có người cho là lời than vãn đời sống nay không bằng xưa của tầng lớp quý tộc[33]Sở Nguyên Vương đời Hán lấy lễ kính đãi Thân Công, Bạch Công và Mục Sinh. Mục Sinh không thích rượu cay, Nguyên Vương bày tiệc rượu, thường bày rượu ngọt. Đến khi con lên ngôi, bày tiệc, quên rượu ngọt. Mục Sinh thác bệnh. Thân Bạch cố nài, nói đến ơn nghĩa vua xưa. Mục Sinh đáp "Vua trước lấy lễ mà đãi ta vì đạo hãy còn. Vua nay sơ sót, tức là quên đạo. Ta há lại khu khu vì cái lễ mọn kia hay sao ?" Bèn thác bịnh mà bỏ đi. Cũng là ý bài thơ này.
Trần phong 陳風1Uyển khâu (gò Uyển) 宛丘312Việc chơi bời ở gò Uyển của người nước Trần
2Đông môn chi phần (cây phần cửa Đông) 東門之枌312Trai gái tụ họp múa hát vui vẻ để trao ân tìnhỞ đây trai gái tụ hội lại ca múa để vui với nhau. Đã chọn buổi sáng tốt lành để tụ hội nơi cánh đồng bằng ở phía nam, cho nên phải bỏ việc mà đến. Nhiều người đến, trai gái tặng nhau bó hoa để kết hảo tình
3Hoành môn (cổng nhỏ) 衡門312Đây là lời người ở ẩn tự vui thích mà không có cầu điều gì cả. Nói rằng cổng thô sơ bỉ lậu, nhưng cũng có thể dạo chơi mà nghỉ ngơi. Nước suối tuy không thể uống mà no được, nhưng cũng có thể vui chơi mà quên đói
4Đông môn chi trì (ao ở cửa Đông) 東門之池312Trai gái tâm đầu ý hợp, nói chuyện tâm tình mà hiểu lòng nhauĐây là những lời trai gái lúc mới gặp nhau. Vì là nhân chỗ gặp nhau và nhân những vật trông thấy mà khởi hứng
5Đông môn chi dương (cây dương liễu ở cửa Đông) 東門之楊28Đây cũng là việc trai gái hẹn hò nhau mà có người quên lời ước hẹn, không đến, cho nên nhân những điều đã trông thấy mà khởi hứng
6Mộ môn (cửa mộ) 墓門212Đả kích kẻ chấp chính bất lương, bài tựa Mao thi cho là đả kích Trần Đà, chưa biết có thật hay không[35]. Lấy hình tượng rìa phạt gai gốc trước cửa mộ để nói lên nguyện vọng muốn trừ bỏ kẻ ấyKẻ xấu đã được cảnh cáo mà vẫn quen thói cũ, không chịu hối cải
7Phòng hữu thước sào (trên đê có tổ chim thước) 防有鵲巢28Lo buồn người yêu bị kẻ khác lừa gạt, phỉnh nịnhĐây là lời trai gái tư thông nhau, mà lo có kẻ chen vào tách lìa đôi lứa, lấy hình tượng trên bờ đê có ổ chim thước, trên gò có cây điều đẹp đẽ mà nói kẻ ấy là ai lại phỉnh gạt người đẹp của ta, khiến ta lo ưu như vậy?
8Nguyệt xuất (trăng ló) 月出312Nỗi nhớ người đẹp tha thiết trong lòng đến nỗi lo âu, buồn bã
9Tru Lâm (ấp Tru Lâm) 株林28Há Trưng Thư là con của Há Ngự Thúc, đại phu nước Trần và Hạ Cơ, con gái Trịnh Mục công. Trưng Thư được phong ở ấp Tru Lâm. Trần Linh công thông dâm với Hạ Cơ, sớm tối đến ấp, cho nên dân chúng ở đấy làm bài thơ này để trỏ việc ấy. Về sau, Linh công rốt cuộc bị Há Trưng Thư giết, rồi Trưng Thư bị Sở Trang công giết chết
10Trạch bi (bờ đầm) 澤陂318Đau đớn sầu thảm vì không gặp được người yêuÝ bài thơ này giống như của bài Nguyệt xuất
Cối phong 檜風1Cao cầu (áo da dê) 羔裘312Theo thuyết xưa ở sách Mao thi, vua nước Cối ưa thích áo quần sạch sẽ để đi dạo chơi, yến ẩm, mà không thể tự cường về chính trị, cho nên nhà thơ mới lo ngại
2Tố quan (mũ lụa trắng) 素冠39Mong mỏi được thấy lại lễ chế tang phục đời xưa, tức thấy đạo hiếu của cổ nhân được noi theoNgười bấy giờ không để tang ba năm, thì làm sao thấy được tang phục. Người hiền đương thời mong mỏi được thấy mà đến nỗi phải nhọc lòng lo nghĩ
3Thấp hữu trường sở (chỗ thấp có cây trường sở) 隰有萇楚312Chính trị phiền phức, thuế má nặng nề, nhân dân không thể kham nổi khổ cực, than rằng muốn làm loài cây cỏ vô tri để khỏi phải ưu phiền
4Phỉ phong (chẳng phải gió) 匪風312Nhà Chu suy vi, người hiền tài buồn mà làm bài thơ này
Tào phong 曹風1Phù du (con thiêu thân) 蜉蝣312Ngao ngán chuyện người đời ham vật chất nhỏ mọn và tỏ ý muốn về ở ẩn để được yên lànhBài thơ này có lẽ lấy việc người đương thời ham mê những cuộc vui chơi nhỏ mọn mà quên lo xa, cho nên lấy con thiêu thân so sánh để mà châm biếm. Bài tự ở sách Mao Thi cho là châm biếm vua chư hầu nước Tào, có lẽ đúng như thế mà chưa khảo xét được
2Hậu nhân (quan hậu) 候人416Châm biếm bọn tiểu nhân nhỏ mọn mà được chức quan toĐây là lời châm biếm vua nước Tào xa bậc quân tử mà gần kẻ tiểu nhân. Vua Tấn Văn công tiến quân vào Tào, trách vua Tào không dùng người quân tử Hy Phụ Ky, mà kẻ tiểu nhân đi xe hiên của bực khanh đại phu đến ba trăm người, là nói về việc này chăng ?
3Thi cưu (chim thi cưu) 鳲鳩424Nhà thơ khen tặng người quân tử dụng tâm công bình đều nhau như một, cho nên nói rằng chi thi cưu thì ở trên cây dâu, có bảy chim con. Còn bực hiền nhân quân tử uy nghi chỉ có một thôi. Uy nghi không biến đổi có thể sửa trị bốn phương, sống lâu đến muôn tuổi
4Hạ tuyền (nước suối chảy xuống) 下泉416Nhà Chu suy đồi, các nước nhỏ khốn đốn tồi tệ, cho nên lấy dòng suối nước lạnh chảy xuống mà bụi cỏ lang um tùm bị tổn thương để ví, rồi hứng khởi than thở tưởng nhớ đến kinh đô nhà Chu trong thời thịnh trị
Mân (Bân) phong 豳風1Thất nguyệt (tháng bảy) 七月888Những nỗi khổ quanh năm trong việc làm nông của dân và cuộc sống của tầng lớp trên, nhiều đoạn cảm thán, chắc là bản thân dân chúng tự kể, lưu truyền rồi thêm thắt vàoChu Công Đán, vì Chu Thành Vương chưa biết nỗi khổ về cấy gặt của việc làm ruộng, khiến những chức quan mù sớm tối ca vịnh bài thơ này để dạy Thành Vương. Ngưỡng lên quan sát sự biến đổi của tinh tú, mặt trời và sương lộ, cúi xuống xem xét sự biến hoá của côn trùng cây cỏ mà biết thời tiết để giao phó công việc cho dân. Đàn bà con gái phụng sự ở trong, đàn ông con trai phụng sự ở ngoài. Bề trên chân thật thương yêu kẻ dưới, kẻ dưới lấy lòng trung thành làm lợi bề trên. Cha đáng phận cha, con đáng phận con, chồng đáng phận chồng, vợ đáng phận vợ. Phụng dưỡng người già cả, thương yêu trẻ con, sống với sức lực của mình làm mà giúp đỡ kẻ yếu đuối. Cúng tế thì đúng lúc, ăn uống vui chơi thì hợp thời, đấy là ý nghĩa của bài thơ Thất nguyệt này
2Xi hiêu (cú vọ) 鴟鴞420Con chim hết lòng bảo vệ tổ nó qua cơn giông bãoChu Vũ Vương thắng Trụ, khiến em là Quản Thúc Tiên và Thái thúc Độ giám sát nước của Vũ Canh, con Trụ. Khi Vũ Vương băng, Thành Vương nối ngôi. Chu Công làm tướng cho Thành Vương, Quản Thúc và Thái thúc phao lời nói xấu rằng Chu Công sẽ làm phản. Cho nên Công phải đi chinh phạt hai năm, mới bắt được Quản Thúc và Vũ Canh giết đi, mà Thành Vương vẫn nghi ngờ. Công mới làm bài này gửi cho Vương, mượn việc con chim thương cái ổ của nó, rồi gọi con cú vọ mà nói rằng "Cú vọ, cú vọ ! Mầy đã bắt chim con của ta, thì chớ phá cái ổ của ta" để ví với Vũ Canh đã làm hư Quản Thái, nhưng không thể nào phá được nhà Chu.
3Đông Sơn (phía đông núi) 東山448Kẻ quân nhân trong chiến dịch đông chinh của Chu Công Đán mãn hạn về quê, dọc đường lo nghĩ đến cửa nhà, vợ con, nhân đó bộc lộ mơ ước được sống trong cảnh thái bình của dân chúngThành Vương nhà Chu đã được bài thơ Xi hiêu, cảm động vì sự biến hóa của sấm gió, mới bắt đầu tỉnh ngộ mà đón Chu Công, lúc ấy Chu Công đi đánh giặc phía đông đã ba năm rồi. Chu Công đã về, nhân đấy làm bài này để uý lạo quân sĩ, kể rõ nỗi lòng của họ. Người trên an ủi nnỗi nhọc nhằn dân, thì lòng dân thấm thía biết dường nào ? Tuy giữa cha con trong nhà nói chuyện với nhau cũng không ngoài lẽ ấy.
4Phá phủ (cái búa hư) 破斧318Binh lính đi đánh nhau lâu ngày, trở về, khí giới hư hỏng, mừng cho mình còn sống sótBinh sĩ, vì ở bài trước đã được Chu Công an ủi ân cần, mới nói như thế này để đáp lại. Nói rằng, việc đông chinh đã khiến cây búa bị hư mẻ, thật là khổ nhọc vậy. Nhưng mà Chu Công làm việc ấy, là để các nước không dám đi ra ngoài chính đạo, dẫu khổ nhọc mấy ta dám từ nan ?
5Phạt kha (đẽo búa) 伐柯28Làm việc gì cũng có đường lối, như đẽo búa có hình cán búa cũ, cưới vợ có bà mai mối lo liệuLúc Chu Công ở phương đông, người phương đông nói lên những lời này để bày tỏ lòng thích mến sâu sa với ông
6Cửu vực (chín cái lưới) 九罭412Đây cũng là lúc Chu Công ở phía đông, người phía đông mừng được gặp ngài, mà nói rằng, cái lưới có chín túi thì có cá tôn, cá phòng. Ta đã gặp được Chu Công, thì đã thấy áo cổn và quần thêu của ngài
7Lang bạt (sói đi) 狼跋28Chu Công dẫu bị phỉ báng, nhưng cách xử trí của ngài không mất độ thường, vẫn an nhiên tự đắc, bởi vì với đạo cao đức cả ngài vẫn được yên vui, đức hạnh ấy không thể nào nói xiết được. Ta có thể thấy tấm lòng của nhà thơ yêu mến Chu Công rất sâu xa, kính trọng Chu công rất cùng cực.
Nhã
QuyểnPhầnCụmThứ tựBàiSố chươngSố câuTóm tắt nội dungTóm tắt chú giải của Chu HyGhi chú
4Tiểu nhã小雅Lộc minh chi thập 鹿鳴之什1Lộc minh324Đãi đẳng tân khách để vua tôi quyến luyến nhau
2Từ mẫu525Nỗi lòng của bề tôi vì việc vua sai mà không phụng dưỡng cha mẹ
3Hoàng hoàng giả hoa520Bề tôi lo công việc của vua sai
4Thường đệ832Anh em, vợ con thì bao giờ cũng quý hơn bạn hữu
5Phạt mộc336Tìm bạn bè, hậu đãi bạn bè
6Thiên bảo636Lời của bề tôi chúc tụng vua
7Thái vi648Nỗi lòng người chiến sĩ lúc ra đồn thú và lúc trở về
8Xuất xa648Quân đội đi và trở về sau khi thắng trận
9Đệ đỗ428Vợ mong chồng đi quân dịch mau trở về
10Nam caiKhông lời
Bạch hoa chi thập 白華 之什1Bạch hoaKhông lời
2Hoa thửKhông lời
3Ngư ly618
4Do canhKhông lời
5Nam hữu gia ngư416
6Sùng khâuKhông lời
7Nam sơn hữu đài530
8Do nghiKhông lời
9Lục tiêu424
10Trẫm lộ416
5Tiểu nhãĐồng cung chi thập 彤弓 之什1Đồng cung318
2Tinh tinh giả nga416
3Lục nguyệt648
4Thái khỉ448
5Xa công832
6Cát nhật624
7Hồng nhạn318
8Đinh liệu315
9Miễn thủy322 (24)
10Hạc minh218
Kỳ phủ chi thập 祈父 之什1Kỳ phủ312
2Bạch câu424
3Hoàng điểu321
4Ngã hành ký dã318
5Tư can953
6Vô dương432
7Tiệt nam sơn1064
8Chinh nguyệt1394
9Thập nguyệt chi giao864
10Vũ vô chính754
Tiểu mân chi thập 小旻 之什1Tiểu mãn
2Tiểu uyển
3Tiểu bàn
4Xào ngôn
5Hà nhân tư
6Hạng bá
7Cốc phong
8Lục nga
9Đại đông
10Tứ nguyệt
Bắc sơn chi thập 北山 之什1Bắc sơn
2Vô tương đại xa
3Tiểu minh
4Cổ chung
5Sở từ
6Tín Nam sơn
7Phủ điền
8Đại điền
9Chiêm bỉ lạc hỉ
10Thường thường giả hoa
Tang hỗ chi thập 桑扈 之什1Tang hộ
2Uyên uơng
3Khuỷ biền
4Xa hạt
5Thanh nhăng
6Tân chi sơ diên
7Ngư tảo
8Thái thúc
9Giác cung
10Uất liễu
Đô nhân sĩ chi thập 都人士 之什1Đô nhân sĩ
2Thái lục
3Thử miêu
4Thấp tang
5Bạch hoa
6Miên man
7Hồ điệp
8Sàm sàm chi thạch
9Điều chi hoa
10Hà thảo bất hoàng
Phần Tiểu nhã còn có cách chia bố cục khác, bao gồm các cụm thơ: Lộc minh chi thập 鹿鳴之什 (13 bài, từ bài Lộc minh đến bài Hoa thử), Nam hữu gia ngư chi thập 南有嘉魚之什(13 bài, từ bài Nam hữu gia ngư đến bài Cát nhật), Hồng nhạn chi thập 鹿鳴之什 (10 bài, từ bài Hồng nhạn đến bài Vô dương), Tiết Nam Sơn chi thập 谷風之什 (10 bài, từ bài Tiết Nam Sơn đến bài Hạng Bá), Phủ điền chi thập 甫田之什 (10 bài, từ bài Phủ điền đến bài Tân chi sơ diên) và Ngư tảo chi thập (14 bài, từ bài Ngư tảo đến bài Hà thảo bất hoàng).
6Đại nhã大雅Văn Vương chi thập 文王之什1Văn Vương
2Đại minh
3Miên
4Vực bốc
5Hạn lộc
6Tư trai
7Hoàng hĩ
8Linh dai
9Hạ Vũ
10Văn vương hữu thanh
Sinh dân chi thập 生民之什1Sinh dân
2Hành vĩ
3Kỷ túy
4Phù y
5Gia lạc
6Công lưu
7Huỳnh chước
8Quyền a
9Dân lao
10Bản
7Đại nhã大雅Đãng chi thập 蕩之什1Đăng
2Ức
3Tang nhu
4Vân hán
5Tung cao
6Chưng dân
7Hàn dịch
8Giang Hán
9Thường vũ
10Chiêm ngưỡng
11Thiệu mân
Tụng
QuyểnPhầnCụmThứ tựBàiSố chươngSố câuTóm tắt nội dungTóm tắt chú giải của Chu HyGhi chú
8Chu tụng 周頌Thanh miếu chi thập 清廟之什1Thanh miếu
2Duy thiên chi mệnh
3Duy thanh
4Liệt văn
5Thiên tác
6Hạo thiên hữu thành mệnh
7Ngã tương
8Thi mại
9Chấp cạnh
10Tu văn
Thần công chi thập 臣工之什1Thần công
2Y hy
3Chẩn lộ
4Phong niên
5Hữu cổ
6Tiềm
7Ung
8Tài hiện
9Hữu khách
10
Mẫn dư tiểu tử chi thập 閔予小子之什1Mẫu dư tiểu tử
2Phỏng lạc
3Kính chi
4Tiểu bí
5Tái sam
6Lương tự
7Ty y
8Chước
9Hoàn
10Lại
11Bàn
Lỗ tụng 魯頌1Quynh
2Hữu Tất
3Phán thủy
4Bí cung
Thương tụng 商頌1Na
2Liệt tổ
3Huyền điểu
4Trường phát
5Ân vũ

Tổng cộng có 311 bài thơ với 1142 chương và 7076 câu thơ được ghi lại trong bản Kinh Thi này[36]

Phát hiện mới về bố cục Kinh Thi

Theo thông tin trên Văn hội báo 文汇报, số ra ngày 16 tháng 8 năm 2000, tại Bảo tàng Thượng Hải có giữ bản Khổng tử thi luận 孔子诗论 bằng thanh trúc thời Chiến Quốc, bản sách đó có ghi lại các bài thơ trong Kinh Thi. Qua so sánh, thấy khác so với thứ tự các phần Phong, Tiểu Nhã, Đại Nhã và Tụng trong bản Thi hiện hành. Chữ dùng cũng không giống nhau, đó là Tụng (phồn thể: 訟, giản thể: 讼), Đại Hạ 大夏, Tiểu Hạ 小夏, và Bang Phong (phồn thể: 邦風, giản thể: 邦风). Điều này đã khơi dậy nhiều suy nghĩ mới về diện mạo ban đầu của Kinh Thi[37].